Được tạo bởi Blogger.

Ông Trần Trung Tính có nguy mất hơn 3,3 tỉ đồng như thế nào?


"Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về thủ tục tố tụng; thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục được"
, đó là nhận định của Bản án số 179/2020/DS-PT ngày 19/6/2020 của TAND Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, khi xét xử phúc thẩm vụ án tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ)”, giữa nguvên đơn (ông Trần Trung Tính) và bị đơn (bà Nguyễn Thị Yến).

Trang 1.

Bản án số 179/2020/DS-PT ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.


Nội dung vụ án


Nguyên đơn trình bày: Ông Tính nhiều lần cho ông Huỳnh Kim Khôi và vợ là bà Nguyễn Thị Yến vay tiền: Ngày 1/10/2011 vay 1.200.000.000 đồng; ngày 8/12/201 vay 300.000.000 đồng; ngày 10/1/2012 vay 1.000.000.000 đồng; ngày 7/2/2012 vay 812.000.000 đồng. Tổng cộng ông Khôi và bà Yến đã vay của ông Tính là 3.312.000.000 đồng. Các lần vay tiền trên, ông Khôi, bà Yến ký tên và ghi họ tên vào biên nhận. Mục đích ông Khôi, bà Yến vay tiền là để đáo hạn ngân hàng. Nhưng sau ngân hàng không tiếp tục cho vay lại nên ông Khôi, bà Yến không có khả năng trả nợ cho ông Tính. Do đó ông Khôi, bà Yến thỏa thuận và cam kết ủy quyền và chuyển nhượng 4 thửa đất để giảm trừ số nợ, gồm:

Thửa đất số 228, sổ đỏ số AM 315903 ngày 10/11/2008 và thửa số 129, sổ đỏ số AM 315904 ngày 10/11/2008, cùng do UBND thành phố Long Xuyên cấp cho ông Khôi, bà Yến. Hai thửa đất này giá chuyển nhượng 1.000.000.000 đồng (tờ cam kết viết tay, không ngày tháng, không có công chứng, chứng thực).

Thửa đất số 130, tờ bản đố số 3 diện tích 1.553,2m2 đất tọa lạc tại phường Mỹ Hòa, Long Xuyên, An Giang theo sổ đỏ số AB 286644 ngày 24/12/2004 và thửa số 58, tờ bản đồ số 3 diện tích 600m2 đất tọa lạc tại phường Mỹ Hòa, Long Xuyên, An Giang theo sổ đỏ số AB 286643 ngày 24/12/2004, cùng do UBND thành phố Long Xuyên cấp cho ông Khôi, bà Yến. Hai thửa đất này giá chuyển nhượng 1.500.000.000 đồng (Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không ngày tháng, không có công chứng, chứng thực).

Như vậy, chuyển nhượng trên tổng số tiền là 2.500.000.000 đồng. Số tiền còn nợ là 812.000.000 đồng.

Bốn "Giấy nhận nợ" , tổng cộng ông Khôi, bà Yến đã vay ông Tính là 3.312.000.000 đồng.

Tuy nhiên, ngày 7/02/2012 bà Yến, ông Khôi chuyển nhượng cho ông Trần Văn Hộ quyền sử dụng đất đối với 2 thửa đất tại Mỹ Hòa mà trước đây bà Yến, ông Khôi đồng ý chuyển nhượng cho ông Tính. Còn hai thửa đất tại Bình Đức, ông Khôi, bà Yến cho lại con gái là bà Huỳnh Thị Yến Trinh.

Ông Tính yêu cầu: Bà Yến và bà Trinh có trách nhiệm liên đới trả cho ông số tiền vay là 812.000.000 đồng cùng với lãi suất theo quy định tính từ ngày 7/2/2012; tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng 4 thửa đất trên; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 100 ngày 7/2/2012 giữa ông Khôi, bà Yến và ông Hộ; hủy sổ đỏ số CS 07656 và CS 07657 ngày 9/5/2016 cấp cho ông Hộ và bà Thủy; tuyên bố vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Yến và bà Trinh; hủy sổ đỏ số CS 06997 và CS 06998 ngày 5/7/2017 cấp cho bà Trinh.

Bị đơn, bà Yến trình bày:


Năm 2010, vợ chồng bà Yến vay Ngân hàng Công thương An Giang số tiền 800.000.000 đồng, do không có tiền đóng lãi ngân hàng, vợ chồng bà Yến đến gặp ông Tính vay tiền. Qua các lần vay thì thực tế vợ chồng bà chỉ thiếu nợ vay của ông Trần Trung Tính 205.000.000 đồng. Vì số tiền vay nhỏ nên không có thế chấp gì và cũng không có làm biên nhận nhưng có tính lãi ngày.

Bên cạnh đó ông Tính thấy vợ chồng bà có 4 miếng đất nên gợi ý mua lại, vì hoàn cánh khó khăn nên vợ chồng bà Yến đồng ý bán lại cho ông Tính. Lúc này do toàn bộ 4 thửa đất trên vợ chồng bà Yến đã thế chấp ngân hàng nên vợ chồng bà Yến đề nghị ông Tính bỏ tiền đế rút số đỏ ra và đến Văn phòng công chứng làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên ông Tính yêu cầu vợ chồng bà phải ký tên và lăn tay vào giấy nhận nợ để làm tin.

Sau khi ký tên xong thì vợ chồng bà cùng với ông Tính đến phòng công chứng để làm dự thảo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng không thấy ông Tính đến đưa tiền cho vợ chồng bà đến ngân hàng lấy sổ đỏ ra nên văn phòng công chứng không công chứng hợp đồng giữa vợ chồng bà với ông Tính. Do ông Tính thất hứa nên vợ chồng bà bán hai thửa đất ở Mỹ Hòa cho ông Hộ để trả tiền ngân hàng, còn hai thửa còn lại cùng đã cho con là Huỳnh Thị Yến Trinh. Nay bà Yến thừa nhận chỉ thiếu ông Tính số tiền 205.000.000 đồng (số tiền này không có làm biên nhận) và bà hứa sẽ trả ông Tính số tiền trên, ngoài ra bà Yến không còn nợ ông Tính số tiền nào khác. Còn việc ông Tính khởi kiện yêu cầu bà Yến có trách nhiệm liên đới trả cho ông Tính số tiền 812.000.000 đồng và tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng 4 thửa đất như đã cam kết cho ông Tính thì bà Yến không đồng ý. Vì các giấy tờ nhận tiền thực tế là để làm tin cho việc chuyển nhượng đất chứ vợ chồng bà Yến không có nhận thêm tiền từ ông Tính, ông Tính đã bội ước không giao tiền cho bà rút số đỏ thì bà không có nghĩa vụ trả tiền cũng như chuyển nhượng đất cho cho ông Tính.

Ngoài ra, bà Yến có yêu cầu đối chất với ông Tính về số tiền vay và yêu cầu giám định chữ viết của bà với ông Khôi trong các biên nhận nợ ngày 1/10/2011, ngày 8/12/2011, ngày 10/1/2012, ngày 7/2/2012 và tờ cam kết mua bán đất không ngày tháng.

Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2019/DS-ST ngày 31/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Tính. Buộc bà Yến trả cho ông Tính sổ tiền 1.586.648.000 đồng. Bác yêu cầu của ông Tính về việc yêu cầu ông Khôi, bà Yến tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng cho ông Tính 4 thửa đất nói trên. Bác yêu cầu của ông Tính về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 100 ngày 7/2/2012 giữa ông Khôi, bà Yến với ông Hộ; hủy sổ đỏ số CS 07656 và CS 07657 ngày 9/5/2016 cấp cho ông Hộ, bà Thủy; tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Yến với bà Trinh vô hiệu và yêu cầu hủy sổ đỏ số CS 06997 và CS 06998 ngày 7/7/2017 cấp cho bà Trinh. Ông Tính kháng cáo một phần bản án sơ thẩm này.

Nhận định của tòa án cấp phúc thẩm


Toà án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án vào ngày 9/8/2017. Tuy nhiên, ông Huỳnh Minh Khôi chết ngày 21/3/2015. Như vậy, ông Khôi chết trước khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án, nhưng Toà án cấp sơ thẩm vẫn đưa ông Khôi tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn và đưa bà Yến, bà Trinh tham gia tố tụng với tư cách người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Khôi là không đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong trường hợp này cần phải đưa bà Trinh vào tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới đúng.

Theo đơn khởi kiện, ông Tính cho ông Khôi, bà Yến vay tiền 4 lần, tổng số tiền là 3.312.000.000 đồng. Sau đó bà Yến, ông Khôi có ký văn bản cam kết chuyển nhượng 4 thửa đất cho ông Tính để cấn trừ nợ. Tuy nhiên, ngày 7/2/2012, ông Khôi, bà Yến lại ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 130 và thửa đất 58 nêu trên cho ông Hộ và bà Thuỷ, ông Hộ, bà Thủy đã được cấp sổ đỏ số CS07656 và CS07657 ngày 9/5/2016. Sau khi ông Khôi chết, bà Yến tiếp tục ký hợp đồng tặng cho con gái là bà Trinh hai thửa đất số 228 và thửa đất số 129 nêu trên, bà Trinh đã được cấp sổ đỏ số CS06997 và CS 06998 ngày 5/7/2017.

Các giao dịch vay tài sản và giao dịch chuyển nhượng 4 thửa đất nêu trên giữa ông Khôi, bà Yến với ông Tính đều diễn ra vào năm 2012. Theo Công văn số 673/CV-PC45 ngày 28/3/2016 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh An Giang, vào ngày 2/4/2012 ông Tính đã có đơn tố cáo ông Khôi, bà Yến về hành vi lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh An Giang (bản photocopy) và Công an tỉnh An Giang đã tạm ngưng chuyển nhượng đối với 4 thửa đất nêu trên. Tuy nhiên, sau đó bà Yến, ông Khôi vẫn tiến hành chuyển nhượng đất cho ông Hộ, bà Thuỷ cũng như ký hợp đồng tặng cho bà Trinh đối với 4 thửa đất này.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh An Giang có Công văn 392/CV-PC45 ngày 13/4/2012 ngăn chặn việc chuyển nhượng 4 thửa đất.

Công văn số 673/CV-PC45 ngày 28/3/2016 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh An Giang, xác định 4 thửa đất nêu trên không liên quan đến vụ án là thể hiện không đúng với thực tế tranh chấp của các đương sự.

Xét giao dịch giữa ông Khôi, bà Yến với ông Hộ, bà Thủy chuyển nhượng 2 thửa đất số 130 và thửa đất 58: Hợp đồng chuyển nhượng được hai bên ký kết ngày 7/2/2012, nhưng theo Công văn số 673/CV-PC45 ngày 28/3/2016, trước đó Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh An Giang có Công văn 392/CV-PC45 ngày 13/4/2012 ngăn chặn việc chuyển nhượng 4 thửa đất này. Tuy nhiên, Công văn số 673 lại xác định 4 thửa đất nêu trên không liên quan đến vụ án là không đúng với thực tế tranh chấp của các đương sự. Ngày 09/5/2016, ông Hộ, bà Thuỷ mới được cấp sổ đỏ đối với 2 thửa đất trong 4 thửa đất nêu trên. Do đó, cần phải thu thập chứng cứ để làm rõ đến khi các đương sự phát sinh tranh chấp thì thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Yến, ông Khôi với ông Hộ, bà Thủy đã tiến hành đến giai đoạn nào; ông Hộ, bà Thủy có biết việc Cơ quan Cảnh sát điều tra thụ lý đối với vụ việc này hay không? Biết tại thời điểm nào? Từ đó, mới đủ căn cứ xác định việc chuyển nhượng có đúng quy định của pháp luật hay không và ông Hộ, bà Thuỷ có thuộc trường hợp ngay tình hay không?

Trong khi có đủ chứng cứ xác định bà Yến, ông Khôi đã vay của ông Tính số tiền hơn 3 tỷ đồng chưa trả, nhưng bà Yến vẫn đem 2 thửa đất còn lại tặng cho con gái của mình là bà Trinh là có dấu hiệu tẩu tán tài sản. Hơn nữa, trước khi bà Yến lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho bà Trinh khi bà Trinh cũng biết việc ông Tính đang khởi kiện đòi khoản tiền mà bà Yến, ông Khôi vay trước đây và đang yêu cầu bà Yến thực hiện việc chuyển nhượng 2 thửa đất này cho ông Tính. Như vậy, hợp đồng tặng cho tài sản này thực hiện trong khi đang tranh chấp, nên được xác định là trái với quy định của pháp luật.

Ngoài ra, khi ông Khôi chết, nếu bà Trinh là người được hưởng di sản thừa kế di sản của ông Khôi đế lại, thì bà Trinh phải là người thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với số tiền ông Khôi còn nợ của ông Tính khi ông Khôi còn sống chưa trả trong phạm vi tài sản bà Trinh được hưởng thừa kế. Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ vấn đề này, nhưng đã tuyên một mình bà Yến trả nợ cho ông Tính là chưa đủ căn cứ vững chắc.

Mặt khác, giả sử có đủ căn cứ xác định các hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Khôi, bà Yến với ông Hộ, bà Thuỷ; giữa bà Yến với bà Trinh có hiệu lực pháp luật, thì trước hết Toà án cấp sơ thẩm cần phải xem xét, giải quyết và tuyên vô hiệu đối với các giao dịch, hơp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký kết giữa ông Khôi, bà Yến với ông Tính thì mới giải quyết triệt để các vấn đề trong vụ án.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về thủ tục tố tụng; thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông Trần Trung Tính, huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, quyết định: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Trần Trung Tính; huỷ toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2019/DS-ST ngày 31/5/2019 của TAND tỉnh An Giang. Chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh An Giang giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Cần một bản án khách quan!


Ông Trần Trung Tính bức xúc: “Tôi đang bị mất trắng 3.312.000.000 đồng, là do: Tòa án không thực hiện yêu cầu của tôi về việc kê biên 4 thửa đất tranh chấp, mặc dù tôi yêu cầu và khiếu nại nhiều lần. Và Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh An Giang ban hành Công văn số 673/CV-PC45 ngày 28/3/2016 cho phép bà Yến, ông Khôi được quyền chuyển nhượng là vượt thẩm quyền, trong khi Cơ quan Cảnh sát điều tra biết 4 thửa đất trên đang có tranh chấp.

Trong khi, việc vay mượn tiền và cam kết chuyển nhượng 4 thửa đất, là rất minh bạch do hai bên tự nguyện thỏa thuận chứ tôi không che giấu điều gì. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp đồng giả cách nhằm che đậy hợp đồng vay là hoàn toàn không đúng, là nhận định chủ quan.

Hiện nay, tuy Tòa án cấp sơ thẩm chưa xét xử lại nhưng tôi rất lo ngại và không yên tâm, bởi vì có thể Tòa án cấp sơ thẩm lại sẽ có những quan điểm như trước đây là không xem xét toàn diện, chính xác, đầy đủ chứng cứ và cũng không nhận thấy sự sai sót của cơ quan tiến hành tố tụng là tòa án cũng như sự sai sót của Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Công an tỉnh An Giang đã thực hiện chức trách vượt quá thẩm quyền cho phép. Hơn nữa, tòa án không xác định rõ hành vi tẩu tán tài sản của bà Yến, ông Khôi là hoàn toàn có cơ sở. Đối với việc Hợp đồng chuyển nhượng 4 quyền sử dụng đất và việc vay mượn là hai quan hệ giao dịch công khai, minh bạch rõ ràng, không có cơ sở nào đề gọi là giả cách như nhận định của cấp sơ thẩm. Mặt khác, khi tôi gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân TP. Long Xuyên, đồng thời có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (kê biên) 4 thửa đất tranh chấp. Nhưng suốt quá trình giải quyết vụ án, các thẩm phán được phân công đã không xem xét thỏa đáng yêu cầu này của tôi.

Tôi cần một bản án khách quan: Tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng 2 thửa đất cho ông Hộ số H00043gA và H00042gA, đồng thời hủy sổ đỏ do ông Hộ đang đứng tên; tuyên bố vô hiệu hợp đồng cho tặng 2 thửa đất còn lại cho bà Trinh, đồng thời hủy sổ đỏ do bà Trinh đang đứng tên; buộc bà Yến và bà Trinh liên đới trả cho tôi 3.312.000.000 đồng. Những yêu cầu này của tôi, là nhằm đảm bảo tài sản để thi hành bản án có hiệu lực pháp luật”.

Thông báo của Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Trang 1.

Trang 2.

Trang 3.

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không ngày tháng, không có công chứng, chứng thực.

Cam kết của ông Khôi, bà Yến với ông Tính.

Nhóm PVĐT | Theo Ngaymoionline.com.vn
Bài viết đóng góp, xin gửi về: media@goldstar.com.vn